Giới như ngọn đèn sáng hay phá tan tối tăm, mờ mịt. Giới như sức mạnh hay dựng đứng những gì đã ngã. Giới như ánh sáng trí tuệ hay chuyển hóa các phiền muộn, khổ đau. Giới là phương thuốc nhiệm màu, chữa lành các bệnh khổ đau ở đời.
– Không trực tiếp sát sinh hại vật, xúi bảo người khác giết hại hoặc vui vẻ đồng tình khi thấy người khác giết hại. Người có tâm sát sinh hại vật thì không bao giờ có thể thiền định, vì trong các nghiệp xấu ác nặng nhất là tội giết hại. Kẻ giết người cùng kẻ bất hiếu với cha mẹ cũng không thể thiền định. Muốn tu thiền được kết quả tốt đẹp chúng ta phải từ bỏ giết hại, bởi khi giết vật mắt thấy, tai nghe chúng giãy giụa đau thương nên chủng tử đó huân tập vào tàng thức, lâu ngày ta thấy con vật la khóc đến đòi nợ.
– Người giết hại nhiều hay lo lắng, sợ hãi, bất an nên trong tâm lúc nào cũng day dứt, khó chịu. Người tại gia vì gia đình, người thân nên phải làm việc để có nguồn thu nhập, vẫn phải ăn mặn để đủ sức khoẻ mà dấn thân đóng góp, phục vụ; nhưng nên ăn mặn theo Tam tịnh nhục (không trực tiếp giết hại; không xúi bảo người khác giết hại; không vui vẻ đồng tình khi thấy người khác giết hại).
Ta có quyền mua thịt cá đã làm sẵn hoặc đã nấu chín, nếu mua thịt cá mần sẵn thì phải để ý kiểm tra, đừng mua đồ ương thối tuỳ theo kinh nghiệm mỗi người. Người hay sát sinh hại vật tức làm khổ chúng sinh nên không có lòng từ bi, do đó khó mà thiền định được kết quả tốt đẹp.
– Không gian tham trộm cướp, lấy tài sản của cải người khác. Trộm là lén lấy, cướp là công khai lấy. Muốn thiền định mà trong tâm cứ tính toán làm sao để lấy của người khác thì chắc chắn không bao giờ tâm an định. Nhân trộm cướp quả hiện đời bị tù tội và nghèo khổ, thiếu thốn. Cho nên, người tại gia tu thiền mà còn bệnh này tức lòng tham lam, ích kỷ quá nhiều, do đó không thể đạt kết quả như ý muốn.
– Người hay tà dâm cũng vậy, vì lòng dục nặng nề thích đắm sắc mê hoa nên lúc nào cũng toan tính, tìm cách chiếm đoạt để hưởng thụ khoái lạc dục tính. Muốn được như vậy trước nhất người tà dâm phải nói dối“tôi không hạnh phúc” hay “tôi bị bắt buộc”, cốt để làm sao cho người khác phái tin mình.
Tham lam, dối gạt để hưởng thụ cho riêng mình là thói quen xấu nhiều đời nhất của đấng mày râu. Dù có vợ đẹp con xinh nhưng vẫn muốn kiếm thêm, vẫn ham thích của lạ để chứng tỏ khả năng chinh phục. Báo chí vừa qua cũng đã đăng tin các đại gia bỏ tiền mua dâm với một số người mẫu, hoa hậu với số tiền quá cao trong một lần quan hệ. Quan niệm chồng chúa vợ tôi, trai năm thê bảy thiếp là tập tục trọng nam khinh nữ phát xuất từ thời phong kiến.
Vua có quá nhiều cung phi mỹ nữ nên ít có ông nào sống thọ. Vậy muốn tu thiền có kết quả tốt chúng ta phải biết tiết chế trong sinh hoạt tình dục bằng cách sốngthuỷ chung “một vợ một chồng”. Người quá nặng tính dục sẽ giảm sức khoẻ, tinh thần không sáng suốt nên ngồi thiền khó an định, do đó tâm niệm cứ lăng xăng dính mắc “ta – người – chúng sinh”.
– Người hay nói dối để lường gạt hoặc hại người cũng khó lòng thiền định vì tâm tư lúc nào cũng tính toán hơn thua, tìm cách sén bớt của người. Tâm không ngay thẳng, hay nghĩ điều tà dại như nói dóc, nói láo để lường gạt, khoe khoang, nói lời mắng chửi nặng nề tức tâm nóng giận, thù hằn chất chứa nhiều trong lòng. Hạng người như vậy cũng khó mà thiền định an ổn. Cho nên, muốn tu thiền đạt được kết quả phải buông xả phiền não tham – sân – si, phải giữ giới không nói dối hại người hoặc nói lời hằn học, mắng chửi.
– Uống rượu hoặc dùng các chất kích thích, ăn uống đồ độc hại, hút chích xì ke ma tuý thì càng không thể thiền định vì tinh thần mê muội, thân thể bất an, không có tinh thần tự chủ. Khi ta tiêu thụ những thứ trên quá nhiều sẽ làm tàn hại thân tâm, bệnh hoạn, si mê, cuồng loạn; làm hại mình, hại gia đình, người thân và xã hội. Hạng người như thế lúc nào cũng tìm cách lường gạt của người khác, nếu làm có tiền cũng tiêu tốn hết vào đó.
Gia đình nào có những con người như thế sẽ khổ đau vô cùng cực vì làm khổ chính mình lẫn gia đình, người thân. Nếu ghiền những thứ đó mà không có tiền thì phải trộm cướp, lường gạt của người khác bằng mọi cách. Một xã hội có nhiều con người như vậy trước sau cũng sẽ tan nhà nát cửa, đất nước loạn lạc, khủng hoảng nhân cách đạo đức làm mất tính người.
Biện pháp duy nhất giúp cho con nghiện là sống cách ly xã hội, được hướng dẫn đạo đức tâm linh để tin sâu nhân quả, được tạo công ăn việc làm tại chỗ, sống đơn giản, đạm bạc thì họa may mới cứu chữa được; bằng không xã hội phải xây cất nhiều trung tâm thần kinh và trung tâm cai nghiện để chứa những con người này, dần hồi nhà tù sẽ được mở rộng để dung nạp nhiều kẻ lường gạt, trộm cướp, biếng nhác, ăn không ngồi rồi.
Hiện nay xã hội chỉ chữa bệnh tạm thời trên phần ngọn nên tốn kém, mất mát, hao hụt quá nhiều; muốn giúp thế gian giảm bớt tệ nạn xã hội chỉ có cách duy nhất làm sao hướng dẫn mọi người tin sâu nhân quả, gieo nhân tốt gặt quả tốt, gieo nhân xấu gặt quả xấu.
Đất nước chúng ta đang trên đà phát triển toàn diện về mọi mặt, nếu con người không ý thức và có hiểu biết chân chính thì chỉ được lợi ích vật chất bên ngoài. Trong bối cảnh hiện nay chúng ta đang sống chung với ô nhiễm môi trường, ô nhiễm văn hóa phẩm đồi truỵ, ô nhiễm thực phẩm đồ ăn thức uống, hầu như đại đa số mọi người đều dùng những hoá chất độc hại đưa vào cơ thể do nhu cầu sự sống.
Ngành quản lý chức năng cần hạn chế cấp giấy phép một số hoạt động có tác hại lớn như các quán nhậu, các làng nướng, vũ trường… đang mọc lên như nấm mà không có giờ giấc hạn chế. Cơ sở giáo dục chưa phù hợp với sự hiểu biết của con người nên không có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa học tập, làm việc và tu dưỡng đạo đức tâm linh. Việc thay đổi, phát triển, mở mang là điều tốt nhưng phải dựa theo trình độ dân trí, nếu phát triển quá nhanh sẽ làm con người không theo kịp, thành ra phản tác dụng và làm tổn hại trở lại. Có tiện nghi vật chất đầy đủ mà không có tinh thần sáng suốt, cùng hiểu biết chân chính thì nguy hiểm vô cùng vì sẽ đưa con người vào hố sâu tội lỗi.
Theo sự hiểu biết của chúng tôi, muốn mọi người sống thương yêu đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần vị tha, biết cảm thông và tha thứ, biết bao dung và độ lượng, hay san sẻ và nâng đỡ bằng tình người trong cuộc sống thì trước nhất ta phải tin sâu nhân quả, tin nhân quả luôn theo ta như bóng với hình, dù trăm kiếp ngàn đời vẫn không mất, khi hội đủ nhân duyên quả báo hoàn tự hiện. Ta tin tâm mình là Phật, siêng năng cố gắng làm lành, buông xả tâm niệm về hành động xấu ác. Ta tin bản thân có khả năng làm được tất cả mọi việc trên thế gian mà không phải cầu khẩn, van xin một đấng quyền năng nào đó. Chính ta là chủ nhân ông của bao điều hoạ phúc.
Ngày xưa khi ta chưa biết tu thì ý nghĩ xấu phát sinh ra lời nói, dẫn đến thân giết hại, trộm cướp, lường gạt của người khác; bây giờ biết tu rồi ta suy nghĩ điều thiện, miệng nói lời từ ái, chân thật, sống bao dung, giúp đỡ người khác. Chúng ta chỉ cần thay đổi nhận thức thì nhân quả xấu sẽ từ từ thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp, nhưng ta phải bền chí, kiên trì, đừng ham mau lẹ mà trở thành tham lam.
Mình mới tu thiền chỉ có vài năm mà muốn có kết quả liền thì không thể được vì vô số kiếp khi chưa biết tu ta đã huân tập biết bao nhiêu thói hư, tật xấu; nay biết tu rồi chỉ cần kiên trì, bền bỉ lâu dài thì việc gì cũng có thể làm được; ví như tấm gương sáng lâu ngày bị bụi bám đầy, ta chỉ cần lau bụi phiền não tham – sân – si, ganh ghét, tật đố, ích kỷ, mê muội chất chứa hại người cho đến khi nào bụi hết thì gương tự trong sáng.
Thiền mà chúng tôi đang hướng dẫn ở đây là đi vào đời sống gia đình và xã hội, ai muốn sống tốt, không làm tổn hại người khác thì ngay bây giờ phải biết tu tâm sửa tính để quay về con người tâm linh của chính mình. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sau khi tu thiền thành tựu đã giáo hoá 49 năm không biết mệt mỏi, nhàm chán vì Ngài không thấy ai là kẻ thù mà chỉ thấy người chưa thông cảm với nhau mà thôi. Dù bị người hãm hại đủ mọi cách nhưng Phật vẫn không buồn phiền mà còn thương họ nhiều hơn vì Ngài đã sống được với tâm thanh tịnh, sáng suốt. Người không biết tu thiền khi gặp việc xấu sẽ tìm cách trả thù trở lại nên nhân quả vay trả, trả vay không có ngày thôi dứt.
– Miệng niệm hơi thở hay biết vọng không theo hoặc niệm Phật Bồ tát, tai chú tâm lắng nghe từng tiếng một rõ ràng, nhờ vậy không bị thất niệm, do đó dễ dàng định tâm. Hành giả Thiền chỉ một thời gian, nhờ chú tâm nên lâu ngày dẫn đến nhất niệm, chỉ nghe âm thanh niệm Phật Bồ tát một cách rõ ràng. Hành giả tu đến đây đã được định nên tâm an trú vào câu niệm Phật Bồ tát.
– Nếu có định mà không có tuệ thì không thể buông xả hết phiền não tham – sân – si và phát tâm giúp đỡ hay san sẻ với mọi người. Do đó, bước thứ hai hành giả phải tu Thiền quán. “Quán” có nghĩa là xem xét, tìm tòi, soi sáng thân tâm và hoàn cảnh để tìm ra lẽ thật – hư của nó.
Trước nhất hành giả quán sát về thân xem có “thật ngã” hay không; sau đó quán sát tâm suy tư, nghĩ tưởng của mình có thật hay không; kế đến là quán sát mọi hiện tượng, sự vật trên thế gian này xem có thật hay không. Khi quán sát như vậy hành giả thấy tất cả đều do nhân duyên hoà hợp mà thành, không có gì là thực thể cố định nên thân tâm, hoàn cảnh đều vô thường hoại diệt, nhờ vậy buông xả hết tâm niệm cố chấp xưa nay khi cho thân tâm này là “thật ngã”.
Hai pháp Thiền chỉ và Thiền quán phải được hỗ tương lẫn nhau, có khi hành giả dùng Thiền chỉ để dừng vọng niệm, có khi dùng Thiền quán để phát sinh trí tuệ thấy biết đúng như thật. Có định mà không có tuệ gọi là “si định”, có tuệ mà không có định thì vọng niệm mãi lăng xăng.
– Khi hành giả thiền trong mọi hoàn cảnh và đã định tâm và phát sinh trí tuệ thì sang giai đoạn bảo trì tính giác, nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn, thấy chỉ là thấy nhưng không dính mắc vào sự thấy nên tâm thanh tịnh, sáng suốt; giống như chiếc gương lâu ngày bị bụi bám, bây giờ bụi không còn nữa nên chiếc gương tự sáng trở lại.
Giai đoạn này hành giả từ từ chuyển hoá tập khí, thói quen nhiều đời còn sót lại cho đến khi nào vọng niệm hết sạch thì gương trong sáng hoàn toàn, không tỳ vết. Tai có tiếng thì nghe có tiếng, không tiếng nghe không tiếng. Tất cả âm thanh lớn nhỏ đều nghe nhưng không bám dính vào một âm thanh nào, nhờ vậy hành giả thành tựu được tính nghe. Mũi – lưỡi – thân – ý cũng lại như thế. Đến giai đoạn này hành giả không cần trụ tâm vào Chỉ hay Quán nữa mà chỉ cần nhận diện rõ ràng từng vọng niệm của mình, nó như thế nào thì biết như thế đó thì vọng niệm tự tan hoà vào hư không.
Sau khi niệm Phật Bồ tát hay quán hơi thở và biết vọng không theo đã thuần thục tức là đang tu thiền chỉ, chúng ta dùng pháp quán chiếu – tức Thiền quán xem xét, soi sáng các pháp duyên sinh vô ngã, vô thường ngay nơi thân tâm, hoàn cảnh; nhờ vậy hành giả biết được lẽ thật của các pháp không thực thể cố định nên dễ dàng buông xả tâm dính mắc “ta – người” và hoàn cảnh bên ngoài; do đó hằng sống với tâm thanh tịnh sáng suốt, không nhơ, không sạch.
Muốn vậy Bồ tát phải quán trí tuệ rộng lớn để chuyển hóa tối tăm, si mê và sống với tính biết sáng suốt, nương nơi mắt thấy tai nghe không lầm lẫn, thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, mũi – lưỡi – thân – ý cũng lại như thế; từ đó phát khởi lòng từ bi rộng lớn đi vào đời cứu độ chúng sinh mà không thấy mình ban cho, người được cho và vật đã cho.
Thiền chỉ là bước đầu để cột tâm con khỉ ý thức của chính mình, xưa nay chúng ta quen chạy rong ruổi đầu này đầu kia, muốn cho tâm an định thì phải chú tâm vào Phật Bồ tát, hoặc niệm hơi thở hay biết vọng không theo, chú tâm vào mọi oai nghi đi – đứng – nằm – ngồi, nhờ vậy mới từ từ đánh bạt những vọng niệm lăng xăng khác. Thiền chỉ lâu ngày thuần thục thì phát sinh định tĩnh, nhưng trụ vào đây mãi sẽ trở thành si định vì không có trí tuệ nên không đủ sức hoá giải phiền não tham – sân – si.
Thiền quán để thấy rõ thực chất thân tâm và hoàn cảnh. Nhờ xem xét, quán chiếu, ta thấy thân này không thật có, do bốn chất đất – nước – gió – lửa hợp thành bởi tinh cha, huyết mẹ cùng với thần thức một chúng sinh. Nếu thân này thiệt thì trước sau như một không biến chuyển, đổi thay, bởi nó giả nên phải già – bệnh – chết. Rồi hằng ngày ta phải vay mượn các thức ăn uống để nuôi thân, mượn vô rồi phải trả ra, cứ như thế hết vay mượn lại trả ra, cho đến khi nào không còn vay mượn nữa thì mạng sống chấm dứt. Nhưng chết không phải là hết, chết chỉ là thay hình đổi dạng, nếu trong đời này ta không biết tu tâm sửa tính để sống có nhân cách đạo đức và giúp đỡ người khác thì mình khó có cơ hội làm người trở lại khi mất thân này.
Đức Phật có tầm nhìn và sự hiểu biết sâu rộng hơn, nhờ trải qua hai lối sống thái quá, nên Ngài biết cách tìm về con đường trung đạo, nhằm giúp bản thân hoàn thiện, cùng nâng đỡ, sẻ chia, để mọi người cùng đạt đến sự an lạc, hạnh phúc trong cuộc sống hiện tại.
Chính vì vậy, ai biết tu thiền sẽ sống một đời bình yên, hạnh phúc trong hiện tại và mai sau. Ai không biết tu thiền khi phước hết hoạ đến sẽ trả quả xấu ác, lúc này dù có ăn năn hối hận cũng đã muộn. Phật dạy “giống như con rùa mù 100 năm mới trồi lên trong biển cả, để tìm được bọng cây chui vào rất khó”. Cũng vậy, nếu ngay trong hiện đời ta không biết gieo trồng phước báo thì khó có cơ hội được làm người trở lại.
Người tại gia phải cố gắng gia công thiền định trong bốn oai nghi cho đến khi nào tâm dứt hết các tạp niệm phải quấy, hơn thua, buồn thương, giận ghét mà lặng lẽ, thanh tịnh mới thật là an nhiên, tự tại. Thật ra không phải vậy, người tu bỏ những niệm lăng xăng tạp loạn để tập trung vào một việc thì sáng thêm chứ làm sao ngu được.
Khi làm việc cũng vậy, nếu buông hết chuyện tạp, tập trung, chú tâm vào công việc thì kết quả sẽ tốt hơn. Khi ta càng buông lại càng nhớ, nhớ một cách tự nhiên, trong sáng nên mọi việc hiện ra rất rõ ràng, phân minh. Chúng ta thử nghiệm xét lại xem khi nào mình rối mà việc này, việc kia cứ dồn dập đến thì mình quên trước, quên sau, không có đầu đuôi gì hết. Khi ấy chúng ta chỉ cần ngồi thiền, tập trung lại một chút sẽ nhớ rõ ràng trở lại, chính vì vậy nhiều người mới tập tu thiền. Nhiều người nói không nhớ gì hết nhưng sao đến lúc ngồi thiền lại nhớ nghĩ đủ chuyện trên đời.
Lúc chưa thiền ta không có thời gian định tâm nên việc này việc kia chồng chéo lên nhau nên mình không nhớ, khi ngồi thiền tâm an tịnh nên ta nhớ biết rõ ràng đủ thứ chuyện. Xưa nay ta lãng quên không biết ứng dụng thiền vào cuộc sống nên thấy khó tu, giờ đã tu nên khi ngồi lại thấy rõ ràng từng vọng niệm thương ghét phát sinh nhưng không dính mắc theo, chỉ nhìn chúng rõ ràng thì tự động chúng lặng xuống, ta khỏi cần phải xua đuổi hay đối trị gì hết.
Thích Đạt Ma Phổ Giác